Tình thợ mộc – Câu chuyện tình xúc đồng ý nghĩa sâu sắc

TG: Nguyễn Hộp

Hôm nay, nhà cô Lựu xóm bãi (gần nhà tôi) vang tiếng cưa đục chan chát. Buổi tối ăn cơm, thầy tôi bảo “Cô Lựu mượn được ông thợ mộc dạo đến sửa lại cánh cửa, dặm lại phên nứa, đóng lại cối xay…chắc phải vài ngày nữa mới xong”.

Nhà cô Lựu chỉ có một mẹ, một con. Mẹ cô già yếu mới mất hơn năm nay, cô ở một mình.Mặc dù đã ngoài ba mươi tuổi, nhưng cô vẫn chưa lấy chồng.

Cũng có vài đám trai làng, trai thiên hạ đến chơi thăm nhà, nhưng đám nào cũng chê nhà cô nghèo, họ bỏ đi chọn nơi khác.Ở thôn quê những năm đầu thập niên bẩy mươi của thế kỷ trước, đang thời kỳ chiến tranh ác liệt, trai làng cùng lứa tuổi với cô Lựu đều lên đường tòng quân đánh giặc cả. Những người như cô Lựu, các cụ gọi là “gái ế”.

Nhà không có đàn ông, cửa nhà, phên nứa, cối xay…hư hỏng, cô không tự sửa chữa được. May có ông thợ mộc dạo đến chợ làng rao tìm việc, vậy là cô Lựu thuê ông đến nhà sửa chữa giúp.

Thợ mộc dạo đến nhà sửa chữa, tuỳ theo công việc gia chủ yêu cầu. Có gia đình làm một ngày, có gia đình làm hai ba ngày mới xong công việc. Gia chủ nuôi cơm, xong việc thì trả công một ngày bằng tiền tương đương với hai ống gạo (trả bằng gạo cũng được).

Chú Sùng (tên người thợ mộc dạo) bị dị tật bẩm sinh, chân đi khập khiễng. Quê chú ở miền trung du, chú đi tầu về miền xuôi làm thợ mộc dạo kiếm sống. Công việc nhà cô Lựu bình thường chỉ cần làm ba ngày thì xong, nhưng cảm thông với hoàn cảnh của cô Lựu chú làm cẩn thận thêm một ngày nữa. Mọi hôm buổi tối, chú Sùng ngủ nhờ ở nhà tôi, vì nhà cô Lựu không có đàn ông.

Sáng nay chú Sùng đưa tiền nhờ cô Lựu đi chợ mua giúp mấy lạng thịt lợn, chai rượu, trầu cau, hương vàng mã.

Cô Lựu ngạc nhiên hỏi “Bác mua những thứ ấy làm gì?”.

Chú Sùng vẻ mặt buồn rầu “Hôm nay là ngày giỗ của vợ tôi, tôi đi làm ăn xa không về được thật là có lỗi với bà ấy. Tối tôi nhờ cô cho tôi úp cái thúng ngoài sân…hương hoa cúng vái vọng cho vong linh bà ấy”.

Chạng vạng tối, chú Sùng mượn chiếc thúng úp giữa sân nhà cô Lựu. Bê chiếc mâm gỗ cũng mượn của cô Lựu, trên mâm có thịt lợn luộc, rượu, trầu cau, hương vàng mã. Đặt mâm lên chiếc thúng úp, đốt ba nén hương, chắp tay vái lạy tứ phương, chú quỳ xuống rì rầm khấn vái…

Trong nhà cô Lựu quan sát không bỏ sót một cử chỉ nào. Cô thầm nghĩ “Đúng là một người nặng tình, nặng nghĩa”, bất chợt cô thấy cay cay nơi khoé mắt.

Đợi cho hương tàn, vừa hoá vàng chú Sùng vừa bảo với cô Lựu “Tôi mời cô uống với tôi chén rượu nhạt tán lộc, mong cô đừng từ chối”.

Cô Lựu cũng chưa ăn, trước lời mời chân tình của chú Sùng. Cô Lựu giúp chú Sùng dọn mâm, hai người ngồi ăn uống rất dè dặt, vừa ăn vừa tâm sự. Chú Sùng kể, vợ chú mất để lại cho chú hai đứa con thơ, cảnh gà trống nuôi con vất vả đủ đường. Cô Lựu cảm thông “Sao bác không đi bước nữa, để các cháu còn có chỗ nương tựa”.

Chú Sùng cạn ly rượu, nhìn lên trời đêm “Nhiều người khuyên tôi đi bước nữa, nhưng cứ nghĩ đến cảnh dì ghẻ con chồng. Tôi lại sợ con mình khổ hơn cô ạ”.

Cầm chai rượu rót thêm vào ly cho chú Sùng, cô Lựu thật thà “Tôi thì nghĩ khác, cha sinh không tày mẹ dưỡng bác ạ!”. Chỉ chờ câu nói này, chú Sùng cầm tay cô Lựu “Nếu cô không chê, thì tôi xin đón cô về với bố con tôi”.

Bị quả bất ngờ, nhưng cô Lựu vẫn để nguyên cho chú Sùng cầm tay…giữa trời sao đêm lấp lánh. Họ trao gửi yêu thương như đã yêu nhau từ thủa nào.

Đêm ấy chú Sùng không về nhà tôi ngủ nhờ, sáng sớm chú sang chào thầy tôi :

“Em về quê thu xếp công việc, xong em lại xuống! Chào anh chị và các cháu nhé”.

Thầy tôi như người đã biết chuyện, vừa rót nước mời chú Sùng, vừa thủng thẳng;
“Gạo nấu thành cơm rồi hử! Chúc mừng chú”.

Nửa tháng sau chú Sùng quay lại, nhờ thầy tôi làm mấy mâm cơm mời họ hàng, bà con hàng xóm đến dự mừng cho chú và cô Lựu chính thức thành vợ, thành chồng. Người làng tôi gọi mối tình của chú Sùng với cô Lựu là “Tình thợ mộc”.

Chú Sùng và cô Lựu đẻ được một em gái giống cô, nhanh nhẹn hoạt bát lắm. Cứ vài tháng chú Sùng lại về với mẹ con cô Lựu, xóm bãi cũng vui hơn. Vì chú Sùng là người mau miệng gặp ai cũng chào hỏi thân tình, chân chú tập tễnh, nhưng chú lại khéo tay hay làm. Trong xóm ai hư hỏng cái gì, ới một câu là chú đến sửa giúp không cần trả công.

Sau năm 1975 chú Sùng đón mẹ con cô Lựu về quê. Nhà cửa nhờ thầy tôi trông nom giúp, thi thoảng cô chú đưa ba đứa con (hai con trai riêng, một con gái chung) về chơi, thắp hương cho mẹ cô ấy. Mấy năm sau cô chú bán nhà, lấy tiền đem về quê đầu tư vườn cây ăn trái.
***
Chiếc xe U oát biển số xanh bon bon trên cung đường đồi trùng điệp vùng trung du, hai bên ngút ngàn màu xanh của vườn cây ăn trái. Anh cán bộ xã mau miệng “Sắp đến nơi rồi sếp ạ”.
Xe vừa dừng bánh, anh cán bộ xã đã oang oang “Ông Sùng, bà Lựu ơi! Nhà có khách này.”.

Mở cổng đón tôi là một bà lão tóc bạc trắng chống gậy, nhưng ánh mắt vẫn còn tinh tường lắm “Ông ơi! Thằng Dần này, cháu tôi bây giờ đĩnh đạc quá! Mày làm cán bộ, đi xe nhà nước mà vẫn đến thăm cô chú…Quý hoá quá.”.
Chú Sùng từ trong nhà chạy ra vỗ vai cô Lựu “Bà để cho cháu nó vào nhà đã chứ”.

Chú Sùng pha trà, gọi với sang hai ngôi nhà bên cạnh. Lúc sau hai em Thắng, Lợi con trai riêng của chú Sùng đến. Hai em nhận ra tôi ngay, chào hỏi niềm nở. Hai em nhỏ hơn tôi vài tuổi, bây giờ là chủ trang trại cây ăn trái, kết hợp thả gà đồi, thu nhập ổn định, kinh tế rất khá giả.

Tôi hỏi thăm em Tuyết con gái của chú Sùng với cô Lựu, chú Sùng phấn khởi báo tin “Em mày vừa bảo vệ luận án tiến sĩ y khoa ở Hà Nội đấy”.
Nhìn lên bàn thờ, thấy có di ảnh vợ trước của chú Sùng. Tôi xin phép chú được thắp nén hương cho người quá cố. Nhìn vào di ảnh, thấy có tờ lịch đã nhuốm màu thời gian. Trên tờ lịch định ngày 10 tháng 12 âm lịch.Ngồi lại bàn uống nước, tôi hỏi chú Sùng “Ngày trên tờ lịch là ngày mất của cô cả hả chú?”.

Chú Sùng nhìn lên bàn thờ trả lời “Đấy là ngày mất, cũng là ngày giỗ của bà ấy đấy. Ngày xưa chú đi làm thợ mộc dạo đến nhà cô Lựu cháu, tuy không phải ngày giỗ vợ chú. Nhưng chú đã dùng chiêu (cúng giỗ vợ) để bày tỏ tình cảm với cô Lựu của cháu. May mắn thay hương hồn người đã khuất cũng thấu hiểu, tác hợp để cô chú có được tổ ấm cơ ngơi như ngày nay”.

Trên đường về anh cán bộ xã thổ lộ, gia đình ông bà Sùng, Lựu nhiều năm liên tục đạt danh hiệu “Ông bà mẫu mực, con trung hiếu, cháu thảo hiền” là hộ gia đình điển hình phát triển kinh tế trang trại. Là tấm gương sáng trong các phong trào ở địa phương.

Trở lại cơ quan công tác, tôi thầm chúc cho chú Sùng, cô Lựu khỏe mạnh vạn thọ vô cương. “Tình thợ mộc” của hai người sẽ đẹp và sống mãi với thời gian.

Hải Dương 31/10/23

Ảnh minh họa

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *